Ảo hóa là công nghệ cho phép từ một máy chủ vật lý có thể tạo nhiều máy ảo độc lập. Mỗi máy ảo là môt hệ thống riêng biệt, có phần cứng (ảo), hệ điều hành riêng và các ứng dụng riêng.
Có hai hình thức ảo hóa:
- Ảo hóa Type 1: Hình thức ảo hóa này được chạy trực tiếp trên phần cứng của máy chủ, cho tốc độ xử lý nhanh do được tối ưu để sử dụng tài nguyên máy chủ. Các sản phẩm điển hình như ESXi của VMware, XenServer của Citrix hay Hyper-V của Microsoft.
Ảo hóa Type 2: Hình thức ảo hóa được xây dựng trên nền Hệ điều hành và phần mềm có sẵn với các sản phẩm thông dụng như VMWare Workstation, Microsoft Virtual PC hay Oracle VitualBox…
Những hạn chế của giải pháp truyền thống:
- Chi phí ban đầu cao: khi có nhu cầu triển khai mới ứng dụng hay mua thêm máy chủ sẽ kèm theo các chi phí khác như nguồn điện, hệ thống làm mát, không gian đặt máy chủ,…
- Hiệu quả đầu tư thấp: với mỗi một máy chủ dành riêng cho một ứng dụng thì công suất sử dụng chỉ khoảng 5-15%.
- Chi phí vận hành cao: Với ngày càng nhiều máy chủ khác nhau, hệ điều hành và ứng dụng khác nhau… sẽ làm tăng chi phí cho việc quản lý, theo dõi, vận hành và bảo dưỡng.
- Hiệu quả công việc giảm: Bộ phận quản trị hệ thống (IT) sẽ phải tập trung phần lớn thời gian cho việc triển khai phần cứng máy chủ, cấu hình, giám sát và bảo trì. Vì vậy không còn nhiều thời gian cho các hoạt động phục vụ sản xuất kinh doanh, các dự án giúp nâng cao hạ tầng hệ thống.
Lợi ích của Ảo hóa
Ảo hóa làm tăng tính linh hoạt, khả năng mở rộng hệ thống, đồng thời tiết kiệm đáng kể chi phí. Máy chủ được triển khai nhanh hơn, giúp nâng cao hiệu suất sử dụng phần cứng, nhiều tác vụ quản lý hệ thống được tự động hóa giúp giảm chi phí vận hành và bảo dưỡng. Các lợi ích bổ sung bao gồm:
- Giảm chi phí ban đầu và chi phí hoạt động.
- Đơn giản hóa, tự động hóa việc quản lý trung tâm dữ liệu, cho phép bộ phận IT tập trung vào những ứng dụng và dịch vụ mới mang lại lợi ích cho người dùng và tổ chức.
- Tăng tính linh hoạt của hệ thống, cho phép di chuyển máy chủ mà không gây ảnh hưởng đến các ứng dụng và dịch vụ đang chạy trên các máy chủ. Cung cấp các ứng dụng và tài nguyên nhanh hơn.
- Giảm thiểu hoặc loại bỏ thời gian dừng hệ thống cho các nhiệm vụ bảo trì thông thường: nâng cấp phần cứng, cập nhật hệ điều hành, phần mềm,…
- Khả năng phục hồi nhanh sau thảm họa.
Có sáu lĩnh vực CNTT mà ảo hóa đang tập trung:
- Ảo hóa mạng: là một phương thức kết hợp và chia băng thông mạng có sẵn thành các kênh độc lập, các kênh này có thể tăng/giảm và được phân bổ cho một máy chủ hoặc thiết bị cụ thể theo thời gian thực. Ý tưởng này giúp loại bỏ sự phức tạp của hệ thống mạng bằng cách tách nó vào các phần có thể quản lý, giống như phân vùng ổ cứng để giúp việc quản lý các tệp dễ dàng hơn.
- Ảo hoá lưu trữ: là sự tập trung các lưu trữ vật lý từ nhiều thiết bị lưu trữ thành một thiết bị lưu trữ duy nhất được quản lý và điều khiển từ một giao diện quản lý duy nhất. Ảo hóa lưu trữ thường được sử dụng trong các mạng lưu trữ.
- Ảo hóa máy chủ: là phân chia các tài nguyên máy chủ (vi xử lý, bộ nhớ, lưu trữ, giao tiếp mạng…) cho nhiều máy ảo độc lập. Mục đích giúp cho người sử dụng không phải biết và quản lý các chi tiết phức tạp của tài nguyên máy chủ trong khi tăng cường việc chia sẻ và tận dụng tài nguyên cũng như duy trì khả năng mở rộng sau này. Lớp phần mềm này thường được gọi là hypervisor.
- Ảo hóa dữ liệu: đang tóm tắt các chi tiết kỹ thuật truyền thống của dữ liệu và quản lý dữ liệu, chẳng hạn như vị trí, hiệu suất hoặc định dạng, thuận lợi cho việc truy cập rộng hơn và khả năng phục hồi tốt hơn gắn liền với nhu cầu kinh doanh.
- Ảo hóa máy trạm: Việc ảo hóa máy trạm (máy tính của người dùng cuối) cho phép người dùng truy cập máy tính từ xa thông qua một thiết bị đầu cuối bất kỳ (máy tính bảng, điện thoại thông minh hay terminal). Các máy trạm ảo hóa chạy trên máy chủ đặt tại trung tâm dữ liệu giúp tăng tính linh động và an toàn, giảm chi phí quản lý.
- Ảo hóa ứng dụng: lớp ứng dụng được tách khỏi hệ điều hành. Bằng cách này ứng dụng có thể chạy dưới dạng đóng gói mà không bị phụ thuộc vào hệ điều hành bên dưới. Điều này có thể cho phép một ứng dụng Windows chạy trên Linux và ngược lại.
Ảo hóa có thể được xem như là một phần trong xu thế chung của CNTT doanh nghiệp, bao gồm tính toán tự động, một viễn cảnh mà môi trường CNTT có thể tự quản lý dựa trên hoạt động nhận thức và tính toán tiện ích, trong đó quyền xử lý máy tính được xem như một tiện ích mà khách hàng chỉ phải trả tiền khi thực sự sử dụng. Mục tiêu thông thường của ảo hóa là tập trung các nhiệm vụ quản trị trong khi cải thiện khả năng mở rộng và khối lượng công việc.